Skip to content

Phật A Di Đà và 48 hạnh nguyện cứu rỗi và hoằng hóa nhân thế

Phật A Di Đà sinh thời đã phát 48 hạnh nguyện để cứu rỗi chúng sinh, được chư thần hư không khen ngợi và chứng giám. Mỗi hạnh nguyện lại thể hiện một khía cạnh khác nhau trên còn đường tu tập và hoằng hóa nhân thế.

Sự tích 48 hạnh nguyện của Đức Phật A Di Đà

Xa xưa cách đây hàng trăm năm, ở nước Diệu Hỷ có nhà vua tên Nguyệt Thượng Lân Vương, hoàng hậu là Thù Thắng Diệu Nhan. Hai người hạ sinh được ba người con lần lượt là Nhựt Nguyệt Minh, Kiều Thi Ca và Nhật Đề Chúng. Khi đó đang trong thời của Thế Tự Tại Vương Như Lai hay Đức Phật Tự Tại Vương. Trong một lần Nhị hoàng tử Kiều Thi Ca đi nghe thuyết pháp, ngài đã bén duyên với cửa Phật, một lòng muốn đi theo con đường tu tập và học theo các giáo lý của nhà Phật.

Sau đó, ngài đã từ bỏ cuộc sống vinh hoa phú quý của hoàng tộc, quy y cửa Phật, thọ Tỳ Kheo giới, lấy pháp hiệu là Pháp Tạng hay còn gọi là Pháp Tạng Tỳ Kheo. Đến một ngày, khi đảnh lễ và chắp tay trước Phật, ngài đã phát 48 lời nguyện độ khắp chúng sinh muôn cõi, cứu vớt những vận mệnh đau khổ, nếu lời nguyện nào chưa chứng sẽ không thành Phật. Khi đó, trời đất rúng động, từ hư không có tiếng ngợi khen: “Pháp Tạng quyết định sẽ thành Phật hiệu là A Di Ðà”.

Tượng Phật A Di Đà tại cơ sở sản xuất Thông Hồng
Tượng Phật A Di Đà tại cơ sở sản xuất Thông Hồng

Sau này, vào các dịp lễ quan trọng của đạo Phật, các tăng ni Phật tử thường niệm 48 hạnh nguyện này trước tượng Phật A Di Đà để tôn vinh tấm lòng của ngài, đồng thời cũng là để giáo hóa chúng sinh, lan tỏa lòng từ bi và vị tha.

48 hạnh nguyện của Đức Phật A Di Đà

Dưới đây là 48 lời nguyện của Đức Phật A Di Đà được trích từ Kinh Vô Lượng Thọ:

  1. Nếu tôi thành Phật, nước tôi vẫn có địa ngục, súc sanh, ngạ quỷ thời tôi không lấy ngôi chánh giác.
  2. Nếu tôi thành Phật, hàng thiên nhơn trong nước tôi sau khi mạng chung trở lại ba ác đạo thời tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  3. Nếu tôi thành Phật, hàng thiên nhơn trong nước tôi không có thân màu vàng ròng thời tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  4. Nếu tôi thành Phật, hàng thiên nhơn trong nước tôi thân chẳng đồng, có kẻ xấu người đẹp thời tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  5. Nếu tôi thành Phật, hàng thiên nhơn trong nước tôi chẳng biết túc mạng, ít nhất là biết sự việc trong trăm ngàn ức na do tha kiếp thời tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  6. Nếu tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi không được thiên nhãn, ít nhất là thấy trăm ngàn ức na do tha cõi nước chư Phật thời tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  7. Nếu tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi không được thiên nhĩ, ít nhất là nghe lời thuyết pháp của trăm ngàn ức na do tha chư Phật và không thọ trì hết, thời tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  8. Nếu tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi không được tha tâm trí, ít nhất là biết tâm niệm của chúng sanh trong trăm ngàn ức na do tha cõi nước, thời tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  9. Nếu tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi không được thần túc, ít nhất là khoảng một niệm qua đến trăm ngàn ức na do tha nước Phật thời tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  10. Nếu tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi nếu sinh lòng tưởng nghĩ tham chấp thân thể thời tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  11. Nếu tôi thành Phật, hàng thiên nhơn trong nước tôi không an trụ định tụ quyết đến diệt độ thời tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  12. Nếu tôi thành Phật, quang minh có hạn lượng, ít nhất chẳng chiếu đến trăm ngàn ức na do tha cõi nước chư Phật thời tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  13. Nếu tôi thành Phật, thọ mạng có hạn lượng, ít nhất là trăm ngàn ức na do tha kiếp thời tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  14. Nếu tôi thành Phật, hàng Thanh Văn nước tôi có người tính đếm được, nhẫn đến chúng sinh trong cõi Đại Thiên đều thành bực Duyên Giác cùng nhau chung tính đếm suốt trăm nghìn kiếp mà biết được số lượng ấy thời tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  15. Nếu tôi thành Phật, hàng thiên nhơn trong nước tôi thọ mạng không ai hạn lượng được, trừ họ có bổn nguyện dài ngắn tự tại. Nếu không như vậy thời tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  16. Nếu tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi mà còn nghe danh bất thiện thời tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  17. Nếu tôi thành Phật, mười phương vô lượng chư Phật không ngợi khen xưng tụng danh hiệu của tôi thời tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  18. Nếu tôi thành Phật, chúng sinh ở mười phương chí tâm tin ưa muốn sinh về nước tôi nhẫn đến mười niệm, nếu không được sinh thời tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  19. Nếu tôi thành Phật, chúng sinh ở mười phương phát tâm Bồ đề tâm, tu công đức chí tâm phát nguyện muốn sinh về nước tôi. Lúc họ mạng chung, tôi và đại chúng vây quanh hiện ra trước họ. Nếu không như vậy thời tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  20. Nếu tôi thành Phật, chúng sinh ở mười phương nghe danh hiệu của tôi, chuyên nhớ nước tôi, trồng những cội công đức, chí tâm hồi hướng muốn sinh về nước tôi mà chẳng được toại nguyện thời tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  21. Nếu tôi thành Phật, hàng thiên nhơn của nước tôi không đầy đủ ba mươi hai tướng đại nhơn thời tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  22. Nếu tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở cõi nước khác sanh về nước tôi rốt ráo tất cả đến bực nhứt sanh bổ xứ. Trừ người có bổn nguyện tự tại hóa độ, vì chúng sanh mà phát hoằng thệ, công đức độ tất cả, đi qua các nơi Phật tu hạnh Bồ Tát, cúng dường chư Phật mười phương, khai hóa vô lượng chúng sanh, giúp họ đứng nơi đạo chánh vô thượng, vượt hơn công hạnh của người tầm thường, hiện tiền tu công đức Phổ Hiền. Nếu không như vậy thời tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  23. Nếu tôi thành Phật, Bồ Tát nước tôi thừa thần lực Phật đi cúng dường chư Phật, trong khoảng bữa ăn nếu chẳng đến khắp vô số vô lượng ức na do tha cõi nước thời tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  24. Nếu tôi thành Phật, Bồ Tát nước tôi ở trước chư Phật hiện công đức mình, nếu lễ cúng dường không có đủ theo ý muốn thời tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  25. Nếu tôi thành Phật, Bồ Tát nước tôi không thể diễn nói nhứt thiết trí thời tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  26. Nếu tôi thành Phật, Bồ Tát nước tôi không được thân Kim Cương Na la diên thời tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  27. Nếu tôi thành Phật, hàng thiên nhơn và vạn vật trong nước tôi thanh tịnh trang nghiêm, sáng rỡ hình sắc, đặc biệt lạ lùng, tột độ vi diệu, không ai lường biết trước được, dầu là có thiên nhãn mà biện biệt được danh số ấy thời tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  28. Nếu tôi thành Phật, Bồ Tát trong nước tôi,nhẫn đến người công đức ít nhất mà chẳng thấy biết đạo tràng thọ tỏa ánh sáng vô lượng cao bốn trăm muôn dặm thời tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  29. Nếu tôi thành Phật, Bồ Tát trong nước tôi nếu đọc tụng thọ trì, diễn thuyết kinh pháp mà không được trí huệ biện tài thời tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  30. Nếu tôi thành Phật, trí huệ biện tài của Bồ tát nước tôi mà có hạn lượng thời tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  31. Nếu tôi thành Phật, nước tôi thanh tịnh soi thấy tất cả vô lượng vô số bất khả tư nghị thế giới chư Phật mười phương, như gương sáng soi hiện hình gương mặt, nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  32. Nếu tôi thành Phật, từ mặt đất lên đến hư không, những cung điện, lâu đài, ao nước, cây hoa, tất cả vạn vật trong nước tôi đều dùng vô lượng châu báu, trăm ngàn thứ hương hiệp lại làm thành xinh đẹp kỳ lạ hơn hàng thiên nhơn. Hương ấy xông khắp vô lượng thế giới mười phương. Bồ Tát nghe mùi hương ấy đều tu hạnh Phật. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  33. Nếu tôi thành Phật, những loài chúng sanh của thế giới vô lượng bất tư nghị mười phương, được quang minh tôi chiếu đến, thân họ nhu nhuyến mềm mại hơn hẳn hàng thiên nhơn. Nếu không như vậy thời tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  34. Nếu tôi thành Phật, những loài chúng sanh của vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương nghe danh hiệu tôi mà không được Bồ Tát vô sanh pháp nhẫn các thâm tổng trì thời tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  35. Nếu tôi thành Phật, hàng nữ nhân của thế giới vô lượng bất tư nghị mười phương nghe danh hiệu tôi vui mừng tin ưa phát tâm Bồ đề nhàm ghét thân người nữ, nếu sau khi chết mà họ còn sanh thân người nữ lại thời tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  36. Nếu tôi thành Phật, chúng Bồ Tát trong vô lượng bất tư nghì thế giới mười phương thế giới nghe danh hiệu tôi sau khi thọ chung thường tu phạm hạnh đến thành Phật đạo. Nếu không như vậy thời tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  37. Nếu tôi thành Phật, hàng thiên nhơn trong vô lượng bất tư nghị thế giới mười phương nghe danh hiệu tôi rồi năm vóc gieo xuống đất cúi đầu vái lạy vui mừng tin ưa tu hạnh Bồ Tát thì được chư Thiên và người đời đều kính trọng. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  38. Nếu tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi muốn được y phục liền tùy nguyện hiện đến, y phục đẹp đúng pháp như Phật khen ngợ tự nhiên mặc trên thân. Nếu còn phải may cắt nhuộm giặt thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  39. Nếu tôi thành Phật, hàng thiên nhơn nước tôi hưởng thọ khoái lạc chẳng như bực lậu tận Tỳ Kheo thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  40. Nếu tôi thành Phật, Bồ Tát nước tôi tùy ý muốn thấy vô lượng nước Phật trang nghiêm thanh tịnh mười phương thì liền được toại nguyện, đều được soi thấy ở trong những cây báu, như thấy mặt mình hiện rõ trong gương sáng. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  41. Nếu tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi, từ đó đến lúc thành Phật nếu các căn thân còn thiếu xấu chẳng được đầy đủ thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  42. Nếu tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi thảy đều chứng được thanh tịnh giải thoát tam muội, khoảng một lúc phát ý, cúng dường vô lượng bất khả tư nghị chư Phật Thế Tôn, mà không mất tâm chánh định. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  43. Nếu tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi, sau lúc thọ chung sanh nhà tôn quý. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  44. Nếu tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi vui mừng hớn hở tu hạnh Bồ Tát đầy đủ cội công đức. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  45. Nếu tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi thảy đều chứng được phổ đẳng tam muội, an trụ trong tam muội nầy đến lúc thành Phật thường thấy vô lượng bất khả tư nghị tất cả chư Phật. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  46. Nếu tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở trong nước tôi tùy chí nguyện của mỗi người muốn được nghe pháp liền tự nhiên được nghe. Nếu không như vậy thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  47. Nếu tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi mà chẳng liền được đến bực bất thối chuyển thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
  48. Nếu tôi thành Phật, chúng Bồ Tát ở quốc độ phương khác nghe danh hiệu tôi mà chẳng liền được đệ nhứt nhẫn, đệ nhị nhẫn và đệ tam pháp nhẫn, nơi các Phật pháp chẳng liền được bực bất thối chuyển thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.
5/5 (1 bầu chọn)