
Trước khi trở thành Bồ Tát Địa Tạng, Ngài từng là Hoàng tử thứ tư của Mẫu Lục Nương và Ngọc Hoàng Thượng Đế, được phong làm Phong Đô Đại Đế, cai quản địa ngục. Tại đây, khi chứng kiến chúng sinh tạo nghiệp, chịu khổ không ai cứu độ, Ngài khởi lòng đại bi, quyết rũ bỏ thần vị để tu hành Bồ Tát đạo. Ngài phát nguyện: "Địa ngục chưa trống không, thề không thành Phật; Chúng sinh độ hết, mới chứng Bồ-đề". Từ đó, Ngài trải qua vô lượng kiếp số, không ngừng hóa thân cứu độ chúng sinh.
1. Kiếp là vị trưởng giả
Trong một kiếp nọ, Ngài là một vị Trưởng giả, may mắn gặp Đức Phật Sư Tử Phấn Tấn Cụ Túc Vạn Hạnh Như Lai. Khi chiêm bái thân tướng trang nghiêm và ánh sáng trí tuệ rực rỡ của Đức Phật, Ngài khởi lòng kính ngưỡng sâu sắc, mong muốn đạt được quả vị như thế để cứu độ muôn loài. Vị Trưởng giả liên tiến đến hỏi Đức Phật, được ngài giải đáp rằng: chỉ đi theo cửa Phật, giải thoát chúng sinh thì mới có thể đạt được Phật quả. Khi đó, Ngài đã phát đại nguyện rằng: “Từ nay đến tận đời vị lai, tôi vì những chúng sanh tội khổ trong sáu đường mà giảng bày nhiều phương tiện làm cho chúng sanh được giải thoát hết cả, rồi tự thân tôi mới chứng thành Phật quả”.
Lời nguyện này trở thành nền tảng cho con đường tu hành Bồ Tát đạo của Ngài, trải qua vô lượng kiếp vẫn không thay đổi. Từ đó, Ngài bắt đầu hành trình độ sinh, gieo duyên lành, giúp chúng sinh thoát khỏi khổ đau, đặt viên gạch đầu tiên cho hạnh nguyện rộng lớn về sau. Đây chính là đại nguyện đầu tiên của Địa Tạng Vương Bồ Tát: Độ tận chúng sinh.
2. Kiếp là người nữ dòng Bà La Môn
Vào thời xa xưa, sau khi Đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương nhập Niết Bàn, trong thời kỳ tượng pháp, có một người phụ nữ thuộc dòng Bà-la-môn, chính là tiền thân của Địa Tạng Vương Bồ Tát. Bà là người có trí tuệ và công đức sâu dày, luôn kính tin Tam Bảo, siêng năng tu tập và được mọi người tôn kính. Tuy nhiên, mẹ bà lại không tin Phật pháp, mê theo tà kiến, phỉ báng Tam Bảo và tạo nhiều nghiệp bất thiện.
Dù đã dùng đủ phương tiện thiện xảo để khuyên mẹ từ bỏ tà kiến, quay về con đường chính pháp, nhưng mẹ bà vẫn chưa kịp hồi tâm thì qua đời. Khi biết mẹ mình đã bị đọa vào địa ngục, chịu vô lượng khổ đau, bà Bà-la-môn nữ đau xót vô cùng. Với lòng hiếu thảo và tâm đại bi, bà đã phát nguyện trước Đức Phật Giác Hoa Định Tự Tại Vương rằng: “Tôi nguyện từ nay nhẫn đến đời vị lai những chúng sinh mắc phải tội khổ, thì tôi lập nhiều phương chước làm cho chúng đó đều được giải thoát”.
Lời nguyện này đã thành đại nguyện thứ hai của Ngài: Độ thoát mọi chúng sinh đau khổ, đưa họ đến giác ngộ và giải thoát hoàn toàn.
3. Kiếp là nhà vua của tiểu quốc
Trong một kiếp xa xưa, khi Đức Phật Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai chưa xuất gia, Ngài có một người bạn thân thiết – vua của một tiểu quốc. Vị quốc vương này chính là tiền thân của Địa Tạng Vương Bồ Tát trong thời kỳ hành Bồ Tát đạo. Cả hai đều có tâm nguyện cứu độ chúng sinh, mong muốn đưa tất cả về con đường thiện lành và giải thoát.
Tuy nhiên, chúng sinh trong tiểu quốc mà vị vua cai trị lại đắm chìm trong tham sân si, không tu thiện, liên tục tạo nghiệp ác. Dù vị vua đã dùng nhiều phương tiện khuyến hóa nhưng họ vẫn ngoan cố, không chịu thay đổi. Chứng kiến điều này, nhà vua cảm thấy thương xót vô cùng. Khi đó, cả hai người – vị vua và người bạn đồng hành – đã cùng phát đại nguyện để cứu độ chúng sinh trong cõi này.
Phát nguyện của người bạn: “Ta nguyện chứng đắc Phật quả trước, sau đó sẽ cứu độ những chúng sinh này”.
Phát nguyện của nhà vua: “Như Tôi chẳng trước độ những kẻ tội khổ được an vi đắc quả Bồ Đề, thời Tôi nguyện chưa chịu thành Phật”.
Kết quả là, người bạn đồng hành của vị vua sau này thành tựu Phật quả, trở thành Đức Phật Nhất Thiết Trí Thành Tựu Như Lai, tiếp tục giáo hóa và cứu độ chúng sinh. Còn vị vua của tiểu quốc tiếp tục ở tại thế cứu giúp chúng sinh.
Lời thệ nguyện này trở thành đại nguyện thứ ba của Địa Tạng Vương Bồ Tát: Độ tận hết thảy chúng sinh trước, sau đó mới chứng đắc Phật quả.
4. Kiếp là thiếu nữ Quang Mục
Lại trong một kiếp khác, khi Đức Phật Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai đã nhập Niết-bàn, trong thời kỳ Tượng pháp, có một vị A-la-hán đi hoằng hóa, truyền dạy giáo pháp để cứu độ chúng sinh. Khi đó, có một thiếu nữ tên là Quang Mục, chính là tiền thân của Địa Tạng Vương Bồ Tát khi còn ở nhân địa.
Quang Mục là người có lòng hiếu thảo và kính tin Tam Bảo, nhưng mẹ cô lại tạo nhiều ác nghiệp, không tin nhân quả, phỉ báng Phật pháp. Khi người mẹ mất, bà bị đọa vào địa ngục, chịu khổ vô cùng. Thương mẹ, Quang Mục đã thiết lễ cúng dường vị A-la-hán, hồi hướng công đức để mong mẹ được siêu thoát. Nhờ phước duyên ấy, mẹ cô được thoát khỏi địa ngục, nhưng vẫn hóa kiếp vào cõi người trong cảnh khổ cực, nghèo hèn.
Biết được điều này, Quang Mục phát đại nguyện trước Đức Phật Thanh Tịnh Liên Hoa Mục Như Lai rằng: “Từ nay nhẫn đến về sau trăm nghìn muôn ức kiếp, trong những thế giới nào mà chúng sinh chịu tội khổ nơi địa ngục cùng ba đường ác đạo, Tôi nguyện cứu vớt chúng sinh đó làm cho tất cả đều thoát khỏi chốn Địa Ngục, Ngạ Quỷ, Súc Sinh... những kẻ mặc tội báo như vậy thành Phật cả rồi, sau Tôi mới thành bậc Chính Giác”. Từ đó, lời nguyện này trở thành một trong những đại nguyện quan trọng của Địa Tạng Vương Bồ Tát, tiếp tục hành trình độ tận chúng sinh trong vô lượng kiếp.
5. Kiếp là Hoàng tử Kim Kiều Giác
Bên cạnh 4 kiếp nêu trên, còn có một kiếp khác của Phật Địa Tạng được ghi chép lại chi tiết. Tại kiếp này, Ngài là hoàng tử Kiều Kim Giác (Kim Kyo-gak) tại nước Tân La (Silla),nay là Hàn Quốc.
Sinh thời, dù được sống trong nhung lụa phú quý nhưng ngài vẫn luôn chuộng đạm bạc, ham học Thánh hiền. Sau khi trưởng thành và được tiếp xúc với đạo Phật, ngài quyết theo con đường tu tập và xuất gia năm 24 tuổi.
Sau đó, ngài quyết định hành cước, làm bè ra khơi. Sau nhiều ngày lênh đênh theo hướng gió, ngài đến cửa sông Dương Tử (Trung Quốc). Từ đây, ngài tiếp tục hành trình cho đến khi đến chân núi Cửu Tử (tỉnh An Huy) thì quyết định ở lại tập trung tu tập.
Tại đây, ngài được nhân dân trọng vọng và nhiều người đã theo ngài tu học, hình thành nên Đạo tràng. Đến năm Trinh Nguyên thứ mười, ngài viên tịch trong một hang động, hưởng thọ 99 tuổi. Nhục thân của ngài sau đó không bị bào mòn mà vẫn nguyên như khi còn sống, được nhân dân thỉnh về thờ phụng tại Bảo tháp trên ngọn Thần Quang Lãnh, nay là ở Thánh tích Cửu Hoa Sơn, Trung Quốc.